Sử sách đã ghi lại: mùa Xuân năm Mậu Tuất
1418, Lê Lợi cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn,
Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú… tất cả 50 tướng văn và tướng võ chính thức phất
cờ khởi nghĩa Lam Sơn. Năm 1424, Lê Lợi quyết định đưa quân vào giải phóng Nghệ
An, tạo nên một bước ngoặt quan trọng của cuộc khởi nghĩa.
Miền núi Nghệ An (trong đó có Mường Choọng) đã góp sức người, sức của để nghĩa quân làm nên nghiệp lớn. Đã trải qua gần 600 năm lịch sử, nhưng hiện nay ở Mường Choọng còn rất nhiều địa danh, dấu tích gắn liền với hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn xưa.
Miền núi Nghệ An (trong đó có Mường Choọng) đã góp sức người, sức của để nghĩa quân làm nên nghiệp lớn. Đã trải qua gần 600 năm lịch sử, nhưng hiện nay ở Mường Choọng còn rất nhiều địa danh, dấu tích gắn liền với hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn xưa.
Chuyện về 2 chiếc trống đồng và chiếc vạc
nuôi quân
Tương truyền 2 chiếc trống đồng này là trống
lệnh của nghĩa quân Lam Sơn, chiếc trống đồng to mỗi lần đánh lên tiếng âm vang
khắp Mường Choọng đều nghe thấy. Chiếc vạc đồng cũng rất đặc biệt, dùng để nuôi
quân nên nó đủ lớn có thể luộc được cả một trâu đực to trong mỗi lần thổi lửa.
Đây là các hiện vật gắn liền với nghĩa quân
được người dân Mường Choọng suy tôn là vật thiêng và chỉ dùng vào việc tế lễ
ở Đền Choọng; hàng năm khi bắt đầu vào Đám Lục Ngoạt (Rằm tháng Sáu âm lịch) dân
bản sẽ làm lễ xin đưa trống và vạc đồng về phục vụ tế lễ tại Đền Choọng- cách nơi
cất giữ trống và vạc đồng chừng 4km; tế lễ xong lại lau rửa cẩn thận và mang về
chỗ cũ.
Vì là vật thiêng nên việc cất giữ các hiện
vật này cũng rất đặc biệt và dòng họ Lương ở Mường Choọng có nhiệm vụ canh giữ các
vật thiêng này. Chiếc trống đồng được cất ở hang núi Thẩm Coọng (hang núi này hiện
vẫn còn và thuộc Bản Dền xã Châu Lý); chiếc vạc đồng được đặt trang trọng trên hòn
đá to giữa lòng một cây si già rậm rạp cuối Bản Dền, hòn đá này nay vẫn còn đó,
án ngữ cạnh đường vào danh thắng Thác Bìa. Hai địa danh này nằm trên trục đường
hành quân của nghĩa quân Lam Sơn tiến đánh thành Trà Lân trước đây.
Hai hiện vật này nhiều người già ở Châu Lý
còn tận mắt nhìn thấy và mới chỉ bị thất lạc trong thời gian gần đây.
Những địa danh đậm dấu ấn lịch sử
Ở Bản Bàng, xã Châu Lý ngày nay có một
thung lũng được dân bản gọi tên là Huồi Vang Cơ- tiếng Thái nghĩa là suối bỏ cờ-
Tương truyền đây là nơi mà nghĩa quân cất giữ các lá cờ chiến trận. Ven dòng suối
này lúc khai hoang làm ruộng người dân còn phát hiện được một số vũ khí như gươm,
chùy… Cũng tại vùng đất này còn có ngọn núi được gọi là Pu Canh Vệ , xưa kia trên
ngọn đồi này có điếm canh của nghĩa quân, nhằm canh gác từ xa kho lương tại Đon
Kho và doanh trại của nghĩa quân ở trung tâm Mường Choọng.
Ở Bản Choọng (Châu Lý) có các bãi đất bằng
được gọi là Văng Mố Khung, Đon Khó, Đon Chợ
tương truyền những nơi này xưa kia nghĩa quân luyện tập bắn súng, dựng nhà kho cất trữ lương thảo, vũ khí (Đon
Khó), giao lưu, họp chợ với bà con trong vùng (Đon Chợ).
Vùng núi giáp ranh giữa xã Bắc Sơn và
Châu Lý ngày nay có hang đá được gọi là Thẩm Ông Hâu. Tương truyền đây là nơi xưa
kia Lê Lợi nghỉ ngơi, bàn bạc việc quân chuẩn bị cho các trận đánh thành Trà Lân
và Bồ Ải- Phá Lưu. Người Mường Choọng xem đây là hang thiêng mọi người phải có trách
nhiệm bảo vệ.
Qua thời gian đồn trú, gom góp lương thảo,
chiêu mộ và luyện tập binh sỹ; cảm kích trước tấm lòng mến khách cũng như những
đóng góp của bà con dân tộc Thái trong vùng, nghĩa quân đã đặt tên cho vùng đất
này là Mường Choọng - nghĩa tiếng Thái là trọng người mến khách. Cái tên Mường Choọng
rất đỗi tự hào gắn với vùng đất này từ đó.
Cao Duy Thái
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét